http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55172
Là
đời Chúa thứ sáu[1] trong chín đời Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn
Phúc Chu (NPC) (1675-1725) được tôn xưng là Quốc Chúa trong lúc sinh
thời (1683). Sống trong giai đoạn đặc biệt của sự phát triển ở Đàng
Trong, Nguyễn Phúc Chu vừa là một Minh Vương, vừa là một Phật tử có
nhiều đóng góp cho sự du nhập và phát triển của Phật giáo Đàng Trong.
Qua
hoạt động hộ quốc, an dân của Chúa NPC, nhất là sau cuộc gặp gỡ với hòa
thượng Thạch Liêm từ Trung Quốc sang, Phật giáo Đàng Trong đã có điều
kiện được mở rộng hơn, và cũng qua những họat động phật sự này, có thể
góp phần làm rõ vị trí, vai trò của Chúa trong mối quan hệ với Phật giáo
Đàng Trong.
Như
vậy, dưới thời Chúa NPC, Phật giáo Đàng Trong là một nền Phật giáo phát
triển hay đi vào suy thoái, hỗn lọan như hòa thượng Thạch Liêm đã nhận
xét: “chẳng những “tôn phái” không ai hỏi đến, mà các việc “ Luật”,
“Luận” cũng đều xếp xó bỏ qua” [2]?
Bài
viết tìm hiểu những đóng góp của Chúa NPC với Phật giáo Đàng Trong, qua
đó cũng làm rõ tình hình Phật giáo Đàng Trong, góp phần nêu lên vai trò
quan trọng của Phật giáo Bắc tông vào việc định hình nét riêng biệt,
đặc thù của giai đọan Chúa NPC trong việc xác lập vương quyền và thần
quyền của mình trên vùng đất mới này.
- Họat động của Chúa Nguyễn Phúc Chu với Phật giáo Đàng Trong
Trong
hai thế kỷ 17 và 18, ở Đàng Trong các chúa Nguyễn đã tìm cách củng cố
đế nghiệp của mình nhằm chống lại với họ Trịnh ở phương Bắc, đồng thời
cũng nhằm bành trướng thế lực về phương Nam. Các chúa Nguyễn đã khôn
khéo sử dụng nguồn nhân lực từ ngoài vào, những di dân gốc nhà Minh, để
khai khẩn vùng đất mới, sử dụng họ như những đạo tiền quân, vừa khai
khẩn lại vừa chống chọi với Chân Lạp. Thông thương giữa Trung Quốc và
Đại Việt thời bấy giờ vì vậy đã trở nên cần thiết, đặc biệt là hệ thống
đường thủy. Tu sĩ và thương nhân từ Trung Quốc có thể đi thẳng vào Đàng
Trong, vì thế cảng Hội An đã trở thành một thương cảng quốc tế tấp nập,
để thông thương bằng đường biển với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ v.v.
Mặt
khác, Nho giáo đã không còn là thế lực, là chổ dựa vững chắc cho sự tồn
tại của nhà Lê. Nhu cầu Phật giáo ngày càng quan trọng. Trong bối cảnh
luồng sóng thông thương từ Trung Quốc và Nhật Bản vào Đại Việt, Phật
giáo Đại thừa (Mahayana) cũng theo di dân bành trướng đến miền Trung
nước Đại Việt. Sách Đại Nam Thực Lục (Tiền biên-Quyển VIII) cho
biết “Giáp Ngọ, năm thứ 23 [1714]…mùa hạ tháng 6..sai người sang nước
Thanh mua kinh Đại tạng cùng luật và luận hơn nghìn bộ để ở tự
viện”[3]. Đây là một chứng cứ cho thấy Phật giáo Đại thừa đã khá phát
triển ở Đàng Trong, sau khi thiền sư Đại Sán được mời đến Thuận Hoá và
lưu trú một thời gian ở chùa Thiên Mụ.
Trong
chín đời Chúa Nguyễn, xứ Đàng Trong trải qua một giai đoạn đặc biệt,
vừa có được điều kiện thuận lợi để có thể mở rộng bờ cõi thêm về phương
Nam, đồng thời, với đường lối chính trị của các Chúa cũng đã làm cho xã
hội Đàng Trong rơi vào một tình trạng bi đát, có liên quan đến đời sống
xã hội và tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo.
Xưng
Vương năm 1691, Nguyễn Phúc Chu mới có điều kiện thể hiện một số hoạt
động Phật sự của mình. Đồng thời với việc khẳng định lấy Phật giáo Bắc
tông làm nòng cốt trong hệ tư tưởng và hoạt động trị nước, Chúa NPC còn
mời một hòa thượng từ Trung Quốc sang Đại Việt để có thể truyền bá tinh
thần Phật giáo một cách sâu rộng hơn.
Sử
sách còn ghi lại những họat động nổi bật của Chúa NPC đối với Phật
giáo. Sau khi hoà thượng Thạch Liêm trở về Trung Quốc, Chúa đã cúng
dường 5 ngàn lượng vàng xây chùa Trường Thọ tại Quảng Đông. Chúa đã
ban biển ngạch và câu đối cho chùa Thập Tháp Di Đà ; ban liễn đối có
ghi đạo hiệu của Chúa là Thiên Túng Đạo Nhân cho chùa Quốc Ân; đúc
chuông đồng vào năm 1710; Bia đá chùa Quốc Ân do Chúa đề vào năm 1729.
Nguyễn Phúc Chu ban cho thiền sư Nguyên Thiều[4] thụy hiệu là Hạnh Đoan
thiền sư. Ông còn làm một bài minh khắc vào bia để ca tụng đạo đức vị
thiền sư này. Bia đá do Nguyễn Phúc Chu ngự đề tại chùa Thiên Mụ có đọan
thơ:
Dưới khe nước nhảy âm thầm,
Tánh ta trong trẻo êm đềm khác đâu
(..) Dựng bia tiêu biểu nơi đây
Giữ tâm thành chánh chẳng thay đổi nào[5]
Lời
thơ khẳng định tâm thành của một vị Chúa.Tuy nhiên, những họat động ấy
không đủ khả năng thay đổi tình trạng xã hội thời bấy giờ theo tinh thần
Phật giáo. Phải cho đến khi có sự xuất hiện của hòa thượng Thạch Liêm
từ Trung Quốc sang Đại Việt.
Năm
1694, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai hai vị sứ là Trần Thiệm Quan và Ngô Tư
Quan mang quốc thư sang chùa Trường Thọ (tỉnh Quảng Đông) mời hòa thượng
Thạch Liêm (Thích Đại Sán) sang Đàng Trong. Trong phần mở đầu của Hải
ngoại kỷ sự do Thích Đại Sán sọan, có ghi Bài tựa của Đại Việt Quốc vương Nguyễn Phúc Châu như
sau: “ Mùa thu năm Giáp Tuất, ta muốn thụ Bồ tát giới pháp, nối chí
Tiên Vương, sai người qua rước, may được hòa thượng nhậm lời. Từ mùa
xuân năm Ất Hợi Hòa Thượng qua đến nơi, lưu lại đến mùa hạ năm Bính Tý,
được gần gũi hôm sớm, cung dưỡng chuyện trò; sau những lúc giảng luận
thiền kinh, còn chỉ vẽ luân thường cương kỷ từ việc lớn đến việc nhỏ,
rạch đường chỉ nẻo, lời lẽ rõ ràng; khác nào đắc người từ trong chổ tối
tăm, đem ra nơi thanh thiên bạch nhật ; giúp ích cho quả nhơn trong việc
chính trị nhiều biết chừng nào.”[6]
Bài
tựa còn thể hiện mối quan hệ thân thiết giữa hòa thượng Thạch Liêm và
Chúa Nguyễn Phúc Chu qua đoạn văn: “Trong những ngày Quả-nhơn cùng với
Lão Hòa Thượng ngao du trong Hương -Thủy Hoa Nghiêm, thì chẳng có gì
phân biệt nội ngoại”[7]
Cuối Bài tựa còn
cho biết được Chúa viết “vào năm Giáp Tý (tức Khương-Hy năm thứ 35,
696), bồ nguyệt (tháng 5), Đại Việt Quốc vương Nguyễn Phúc Châu, thọ bồ
tát giới đệ tử, pháp danh Hưng Long, Kính lễ viết tại Tĩnh -danh phương
trượng ở Tây cung Giác vương Nội viện”.
Đàn
truyền giới đã được thiết lập ngay sau khi hòa thượng Thạch Liêm sang
Đại Việt với 1.400 giới tử. Trong giới đàn này, vào ngày 1 tháng tư năm
Ất Hợi 1695 Chúa Nguyễn đã mở cùng lúc 3 đàn truyền giới: Sa Di giới, Tỳ
kheo giới và Bồ tát giới. Đàn Bồ tát giới truyền cho các công hầu, tông
tộc chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu cũng thọ Bồ tát giới trong một
đàn riêng biệt. Thạch Liêm hòa thượng đã đặt pháp danh cho Chúa Hiển
Tông là Hưng Long, biệt hiệu Thiên Túng Đạo Nhân.
Chúa
NPC đã tâm sự với hòa thượng Thạch Liêm: “ Đệ tử từ bé nghe hai chữ
Phật Pháp đã sanh tâm kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam tức thì hoan
hỷ, chẳng biết kiếp trước là ai? làm phúc nghiệp gì? mà nay sanh ra làm
vua ở đây? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên nghiệp trước,
dội đức từ bi vô lượng”[8] . Lời tâm sự cho thấy Chúa là người đã am
hiểu giáo lý nhân quả, luân hồi trong Phật giáo.
Mối
quan hệ giữa hòa thượng và Chúa Nguyễn Phúc Châu cũng đã giúp hòa
thượng hiểu rõ hơn nội tình của Xứ Đàng Trong :“Mỗi năm, vào khoảng
tháng ba tháng tư quân nhân đi ra các làng bắt dân từ 16 tuổi trở lên,
những người cường tráng thì gông lại bằng một cái gông tre, hình như cái
thang nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân; vào quân đội rồi mỗi
người bắt học một nghề, kế phân phái đi theo các chiến thuyền để luyện
tập có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở tại vương Phủ, xâu tuổi
chưa quá 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đòan tụ. Hàng năm,
thân thích đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những dân
còn lại ở nhà, tòan gầy yếu tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ. Cha mẹ
sợ con phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn
tránh việc quan; do đó bọn khóac áo nhà chùa rất đông, Phật pháp trở
nên hỗn lọan, chẳng những “tôn phái” không ai hỏi đến, mà các việc “
Luật”, “Luận” cũng đều xếp xó bỏ qua; đến đỗi những kẻ mão ni áo tràng,
mà nết xấu tật hư, còn quá bọn dân quê ngoài làng mạc! Cho đến những
hạng trí thức tự xưng làm thầy người, cũng không cứu vãn được tệ phong,
luống phụ lòng kính tin của quốc dân và chùa- thượng. Tai nghe mắt thấy,
há nở làm thinh; bèn viết cáo bạch một bài, dán lên các cửa chùa cho
mọi người được rõ”[9]. Lời trần tình của hòa thượng Thạch Liêm đã phản
ánh rõ nét thực trạng của xứ Đàng Trong qua chính sách của Chúa đối với
một vùng đất còn bất an, từ đó đã tạo điều kiện cho tu sĩ Phật giáo ở
Đàng Trong chỉ phát triển về số lượng hơn là chất lượng.
Sau
khi nắm rõ tình hình xã hội Đàng Trong, hòa thượng Thạch Liêm đã đưa
ra 18 điều, gọi là “Lập Quốc Chánh Ứớc” 18 điều[10], làm quy chế giúp
Chúa Nguyễn Phúc Chu trong việc trị nước. Nội dung bao gồm việc thương
lính, yêu dân, thông thương, lợi quốc, kỷ cương, pháp độ.. “Vương đọc
xong rất mừng, bảo nội quan Chưởng sự rằng: “Nước ta pháp độ dân tình
đều chưa được đúng đắn, nay nhờ Lão hòa thượng đem lễ phép Trung Quốc
chỉ dạy, liệt trần 18 điều ; nên khắc bản yết lên cửa phủ, hiểu dụ văn
võ quan dân đều biết, và khắc 24 thẻ bài, chia lọai nêu rõ. Nếu ai trái
điều lệ, phạm phép, cho kẻ bị thiệt hại, cầm thẻ bài đến kêu. Vô luận
văn võ quan dân vương thần quốc thích đều cứ pháp luật trị tội. Vĩnh
viễn lấy đó làm quốc chánh vậy”[11].
Năm
1695, khi hòa thượng Thạch Liêm sang Đại Việt, có ghi lại nhận xét của
mình về cung điện của Chúa Nguyễn Phúc Chu rằng “cung điện được trang
hòang với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược,
giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy”.
Ở
ngôi 34 năm, tinh thần yêu nước thương dân của Chúa được thể hiện
trên chiếc chuông đồng tại chùa Thiên Mụ (Huế) đúc năm 1710 “ Duy nguyện
phong điều vũ thuận, quốc thái dân an, pháp giới chúng sinh đồng viên
chủng trí” ( Nguyện cầu gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, chúng
sinh trong pháp giới đều được vẹn toàn trí tuệ ).
Như
vậy, thông qua các họat động của Chúa NPC, Phật giáo ngày càng được
khởi sắc, nhất là sau khi hòa thượng Thạch Liêm sang và giúp Chúa trong
việc trị nước. Các hoạt động “hộ quốc an dân” ngày càng được thấm nhuần
tinh thần Phật giáo, trong đó có việcthương lính, yêu dân. Nếu
như trước đây, để củng cố ngôi vị của Chúa, người dân đã bị bắt buộc
phải rời xa gia đình, xa người thân yêu suốt cả một cuộc đời, thì nay
cách trị nước đã được thay đổi, mang tính nhân bản hơn, nhờ Chúa NPC đã
áp dụng hình thức “quản lý xã hội” trong tinh thần Từ Bi và Trí Tuệ của
Phật giáo.
2. Ảnh hưởng của hoạt động Phật giáo của Chúa Nguyễn Phúc Chu đối với vùng đất Đàng Trong
Như
đã trình bày trên, qua các đời Chúa trị vì ở Đàng Trong, do phải cố
gắng duy trì kỷ cương nhằm giữ vững sự an ổn cho vùng đất mới, nên Chúa
đã tiến hành việc bắt người dân trẻ tuổi, cường tráng để giải về phủ,
sung vào quân đội; bắt học nghề, phân đi theo các chiến thuyền để luyện
tập phòng khi có chiến tranh ra đánh giặc; khi chưa quá 60 tuổi, chẳng
được về làng. Cách thức quản lý người dân như vậy, xét về mặt chính trị
tuy có chặt chẽ, nhưng sự “phòng xa” đó đã đưa lại nhiều điều phiền muộn
cho người dân trong hầu hết các gia đình, đã làm “thất nhân tâm”. Sự xa
cách vợ chồng, con cái trong cả một đời người như vậy, không thể tạo
được một xã hội an bình, hạnh phúc. Chính nhờ 18 điều “Lập Quốc Chánh
Ứớc”đã giúp giải tỏa được mối lo âu, sự phiền muộn đã kéo dài quá lâu
trong người dân Xứ Đàng Trong.
Thành
tựu an dân đã được Chúa NPC bộc bạch với hòa thượng Thạch Liêm rằng:
“Từ ngày Lão hòa thượng đên đây, trong nước mang ơn được tám chữ “phong
điều vũ thuận, quốc thái dân an”; vã lại, các năm trước thuyền ngoại
–dương đến buôn, một năm chừng sáu, bảy chiếc, năm nay số thuyền lên đến
mười sáu, mười bảy chiếc, trong nước nhờ đó tiêu dùng được dư đũ; ấy
đều nhờ phước đức Hòa thượng che chở vậy”[12].
Giải
thích về sự phát triển của Phật giáo Đàng Trong, nhà sử học Li Tana đã
nhận xét “Trong tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy
cần phải đưa ra một cái gì đó khác với tín ngưỡng của người Chăm để củng
cố các di dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Không thể sử dụng
Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn
với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối
với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không
dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền thống của người
Việt ở phía Bắc. Trong những hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại Thừa đã cung
cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn. Phật giáo, một mặt đẩy
mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác làm lắng động các mối lo
âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những
người cai trị”[13]
Các
chúa Nguyễn đã tạo nhiều thuận lợi cho Phật giáo Đàng Trong phát triển,
thông qua sự du nhập trực tiếp của các thiền sư Trung Hoa vào Trung và
Nam bộ. Điều này cũng góp phần chứng minh cho ảnh hưởng nhạt dần của các
ngôi chùa do thiền sư Trung Hoa đặt nền móng ở phía Bắc, trong khi hiện
nay, khắp Nam bộ vẫn còn khá nhiều ngôi chùa do người Trung Hoa xây
dựng, vẫn đang tiếp tục họat động thông qua dòng phái Lâm Tế,Tào Động.
Như vậy, đã có 2 trong 5 phái (ngũ gia tông phái) phổ biến tại Trung
Quốc đã du nhập và phát triển ở Đàng Trong.
Cũng
có thể thấy rằng, thời Chúa NPC, những họat động Phật giáo mà Chúa đã
thực hiện, chỉ là “bề nổi”.Việc ghi khắc bi ký, ban bản ngạch, biển vàng
khắp các chùa ở Thuận Hóa cũng chỉ là để khẳng định với Chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài về quyền lực của mình khắp nơi trong vùng đất Đàng Trong, chứ
chưa đủ chứng cứ để cho thấy một Phật giáo đã thắm sâu vào người dân xứ
này. Hay như việc thọ giới của 1.400 giới tử ở Huế và 300 giới tử ở Hội
An chỉ là sự khởi đầu của một đạo Phật mới bắt đầu tiếp cận được với
đại chúng.
Trong tác phẩm Truyện Sãi Vãi của
Nguyễn Cư Trinh[14] cũng cho thấy rõ hơn tình trạng Phật giáo Đàng
Trong giai đoạn sau này, khi Chúa NPC đã qua đời, qua cuộc đối thoại
giữa một tăng sĩ (sãi) và một ni cô (vãi), có đọan viết: “Chiếu du trơn
như mỡ; thuốc lá ướp hoa ngâu; Rượu hồng cúc ngàu ngàu; trà mỹ xuân phức
phức. Sẳn đồ, sẳn đạc, sẳn vãi, sẳn thầy; Thóat liêu sau cho gần đó gần
đây; vào cùng Sãi đặng tu hoài tu hủy”[15]
Đánh
giá chung về Phật giáo Đàng Trong hai thế kỷ 17 và 18, cũng có nhận
định rằng “Dưới thời chúa Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn, với định
chế chùa chúa, chùa vua xuất hiện, giới tăng lữ chịu sự chi phối khá
chặt chẽ của nhà cầm quyền. Đặc biệt là vị trụ trì các chùa lớn (Tăng
cang) đều do triều đình bổ nhiệm qua sắc chỉ của vua. Tính cách quần
chúng của Phật giáo nước ta do đó chưa có gì rõ rệt trong suốt thế kỷ
18.”[16] Vì vậy, chúng tôi chưa thật sự đồng tình với nhận định của Lê
Đình Cai khi cho rằng: “Khi mất, Chúa đã để lại rất nhiều công trình xây
cất về đền đài, dinh thự và đạo Phật thật sự đã được phục hưng lại với
vị trí cũ giống như của thời Lê Lý trước đây”[17]
Tóm
lại, dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, Phật giáo Đàng Trong đã có được
nhiều thuận lợi để phát triển, nhất là sau khi có sự xuất hiện của hòa
thượng Thạch Liêm từ Trung Quốc sang. Đó là một nền Phật giáo, buổi đầu
được hình thành từ sự khẳng định quyền lực của Chúa Nguyễn ở vùng đất
mới. Vương quyền và thần quyền đã nhập làm một. Chúa NPC, tuy có am hiểu
về giáo lý Phật giáo, nhưng để củng cố vương quyền của mình, các họat
động Phật giáo chỉ có ở tầng lớp trên, ở hình thức, ở số lượng. Sau đó,
cùng với sự thay đổi cung cách quản lý xã hội theo tinh thần Từ Bi và
Trí Tuệ của Phật giáo, đạo Phật đã dần được đi vào đại chúng, tuy nhiên
vẫn chưa thực sự rõ rệt, bởi vì với một thiết chế Phật giáo như lúc bấy
giờ, từ việc bổ nhiệm chức sắc, đến việc phong Tăng cang.. thảy đều do
Vua Chúa thực hiện thông qua các sắc chỉ. Chính hạn chế của thời đại đã
làm cho Phật giáo chưa thể thóat ra khỏi ảnh hưởng của cung đình để mang
màu sắc dân giã, và cũng chính vì vậy, ở một mức độ nhất định, Phật
giáo Việt Nam thế kỷ 17-18 vẫn chưa thực sự mang ý nghĩa có mặt là vì
con người và cho con người!
Title: | Minh vương Nguyễn Phúc Chu với việc phát triển Phật giáo đàng trong |
Authors: | Tạ, Quốc Khánh |
Keywords: | Phật giáo;Nguyễn Phúc Chu |
Issue Date: | 2012 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số 2/2012 ; 4 tr. ; TNS07693 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55172 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Nhận xét
Đăng nhận xét